Bạch Tuyết (nghệ sĩ cải lương) – Wikipedia tiếng Việt

Bởi thuonghieuhcm
72 Lượt xem
Đối với những định nghĩa khác, xem Bạch Tuyết

Bạch Tuyết (sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945) là nữ nghệ sĩ cải lương danh tiếng, được mệnh danh là “Cải lương chi bảo“. Trước năm 1975, bà kết hợp cùng nghệ sĩ Hùng Cường tạo thành “Cặp sóng thần” cực kì nổi tiếng của sân khấu cải lương thời đó. Bà cũng là Tiến sĩ Nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam tại hai viện hàn lâm Anh quốc và Bulgaria với đề tài “Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á với điều kiện sinh hoạt hiện đại của khán giả thế kỷ thứ 21”, bà được Nhà nước Việt Nam tôn vinh danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.

Bà còn viết lời vọng cổ cho các bài tân nhạc với bút danh là Nguyễn Thị Khánh An[1].

Cuộc đời và sự nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]

Bà tên thật là Nguyễn Thị Bạch Tuyết, sinh 24 tháng 12 năm 1945 tại làng Khánh Bình, Châu Đốc (nay thuộc Khánh An, An Phú), tỉnh An Giang. Từ thuở còn đi học đã bộc lộ năng khiếu ca, ngâm, thường được các thầy cô đưa lên trình diễn trong những đêm văn nghệ.

Mồ côi mẹ khi 9 tuổi (1955), và bắt đầu đi hát ở những nhà hàng ca nhạc bằng những bài tân nhạc như Nắng đẹp miền Nam, Làng tôi, Tiếng còi trong sương đêm,

Cũng như những bạn cùng lứa, Bạch Tuyết rất hâm mộ Thanh Nga. Trong một lần gặp gỡ, Thanh Nga nhận xét rằng Bạch Tuyết rất có khiếu hát cải lương, Thanh Nga nói với Bạch Tuyết rằng ” Em đi hát đi, chứ mặt em mà đi hát thì em nổi tiếng dữ lắm “, lời khuyến khích đó là một trong những động lực đưa bà đến với nghiệp hát xướng .Năm 1960, Bạch Tuyết vào học trường nội trú của những ma-sơ Công giáo, thời hạn này, bà giao du học hỏi với nhiều nghệ sĩ, trong đó có soạn giả Điêu Huyền. [ 2 ] Nhờ đó, tên tuổi của bà dần được Open trên những đài phát thanh, trên báo chí truyền thông. Điêu Huyền nhận bà làm con nuôi, cho gia nhập đoàn Kiên Giang, sự kiện này trợ giúp bà rất nhiều trong bước đường sau này .

Năm 1961, đoàn Kiên Giang diễn vở “Lá thắm chỉ hồng”, cô đào chính tới trễ, khiến Bạch Tuyết bất ngờ được giao vai cô lái đò Lệ Chi, diễn xuất của bà khiến khán giả hết sức ngạc nhiên. Sau đó là vở “Kiếp chồng chung”, “Suối mơ rền áo cưới”,… Bà được Út Trà Ôn mời về đoàn Thống Nhất, với vở “Tiếng hát Muồng Tênh”, tên tuổi bà bắt đầu được chú ý.

Tuy đi hát, nhưng bà lại rất thích đi học. Đang hát và nổi tiếng với Đoàn Thống Nhất, thì bà nghỉ nửa năm để ôn thi Tú Tài. [ 2 ] Sau này, bà cũng nhiều lần đang hát thì nghỉ ngang như vậy để đi học. [ 2 ]Cuối năm 1962, bà vào đoàn Bạch Vân. Năm sau, bà đoạt Giải Thanh Tâm cho Diễn viên triển vọng .

Năm 1964, bà về hát cho đoàn Dạ Lý Hương, hợp tác với các soạn giả danh tiếng bấy giờ là Hà Triều – Hoa Phượng, tài năng của bà càng được khẳng định. Năm sau, vở Tần nương thất đã mang lại cho bà Huy chương Vàng giải Thanh Tâm cho nghệ sĩ xuất sắc. Cũng trong năm này, bà được soạn giả Hoa Phượng và giới báo chí tặng cho danh xưng “Cải lương chi bảo” do sự thành công rực rỡ của vai diễn Lê Thị Trường An trong vở “Tuyệt tình ca”. Danh xưng này gắn liền với tên tuổi bà đến tận bây giờ.

Năm 1966, Hùng Cường gia nhập đoàn Dạ Lý Hương, cùng với Bạch Tuyết tạo thành một cặp đôi hoàn hảo trong mắt khán giả, được báo chí thời đó phong tặng là “Cặp sóng thần” vì sức hút và độ ăn khách của họ vô cùng mãnh liệt. Bà ở lại đoàn Dạ Lý Hương thêm 2 năm nữa.

Sau năm 1968, tình hình chiến tranh lan rộng, bà ngừng hát một thời gian. Đến năm 1971, bà cùng với Hùng Cường mở gánh hát Hùng Cường – Bạch Tuyết (sau này đổi thành Đoàn ca kịch Bạch Tuyết), diễn các vở kinh điển như: Trăng thề vườn thúy, Má hồng phận bạc, Cung thương sầu nguyệt hạ,… Gánh hát này được rất đông người hâm mộ, tuy nhiên do không biết cách quản lý, sau một thời gian đã ngưng hoạt động. Sau đó bà chuyển sang học Luật.

Năm 1985 ( 40 tuổi ), Bạch Tuyết bước vào giảng đường ĐH và có được bằng Cử nhân Ngữ văn .Năm 1988, được Nhà nước phong tặng thương hiệu Nghệ sĩ xuất sắc ưu tú, cũng năm này bà tốt nghiệp khoa đạo diễn ở Viện Hàn lâm Sân khấu và Điện ảnh tại Sofia .

Năm 1995, bà bảo vệ luận án Tiến sĩ với đề tài “Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á” và trở thành tiến sĩ nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam. Với tư cách Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn phát triển văn hóa – văn hóa dân tộc của Trường Đại học Bình Dương, bà đã tổ chức nhiều chương trình sân khấu có giá trị về nghệ thuật dân tộc. Hằng tháng, trung tâm này kết hợp cùng Đài Truyền hình Bình Dương thực hiện chương trình “Chân dung đối thoại” với mục đích phổ biến, đề cao văn hóa nghệ thuật dân tộc.

Luôn đau đáu với sự nghiệp phát triển cải lương, bà ôm ấp kế hoạch xây dựng những “trường ca cải lương” và âm thầm bắt tay vào viết những trường ca chuyển thể từ tác phẩm Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Bút quan hoài (Trần Tuấn Khải),… Hiện tác phẩm chuyển thể Kinh Pháp Cú thành trường ca cải lương của bà với nhiều bài bản dễ nhớ, dễ hát, dễ thuộc đã được tái bản nhiều lần qua hình thức VCD, được khán giả đón nhận và khen ngợi… [3]

Năm 2012, bà được Nhà nước phong tặng thương hiệu Nghệ sĩ Nhân dân ở lần xét duyệt thứ 7 ( năm 2011 ) .Những người bà có dịp ca diễn chung : Thanh Sang, Bảo Quốc, Ngọc Giàu, Thanh Tuấn, Lệ Thủy, Diệp Lang, Minh Phụng, Minh Vương, Hùng Cường, Út Bạch Lan, Thái Châu, Tấn Tài, Út Trà Ôn, … Bà từng diễn chung với nhiều kép, nhưng người đóng chung với bà để lại ấn tượng thâm thúy nhất vẫn là Hùng Cường. Họ đã tạo nên cặp đôi bạn trẻ ” sóng thần ” cực kỳ nổi tiếng vào thập niên 1960. [ 4 ]

Các vai diễn điển hình nổi bật[sửa|sửa mã nguồn]

Bà có rất nhiều vai diễn trên sân khấu cải lương, những vai nổi tiếng của bà: Kiều Nguyệt Nga, Thái hậu Dương Vân Nga, Đời cô Lựu,…

  • Kim Vân Kiều
  • Kinh Pháp Cú
  • Đức Phật Thích ca
  • Kiều Nguyệt Nga
  • Đời cô Lựu
  • Thái hậu Dương Vân Nga
  • Mùa thu lá bay
  • CD Cải Lương Thính Phòng 1 “Tân cổ nhạc Trịnh”. Cải lương thính phòng 2 “Gợi giấc mơ xưa”

Các bài tân cổ giao duyên, vọng cổ[sửa|sửa mã nguồn]

Những phim tham gia[sửa|sửa mã nguồn]

Với bút danh : Nguyễn Thị Khánh An

Bài tân nhạc do bà viết lời vọng cổ[sửa|sửa mã nguồn]

Hơn 300 bài tân cổ do bà tự sáng tác .

  • Bông hồng cài áo
  • Thêu áo như lai
  • Thương màu áo lam
  • Miền nhớ
  • Tình ca đất phương Nam
  • Chuyến tàu hoàng hôn
  • Mưa nửa đêm
  • Tình ca quê hương
  • Chuyến tàu hoàng hôn
  • Đau xót lý chim quyên
  • Trăng về thôn dã

Tuồng cải lương do bà soạn[sửa|sửa mã nguồn]

  • Ba người mẹ (kịch bản: Khưu Ngọc)
  • Dấu chân cỏ dại (kịch bản: Nguyễn Chí Trung, chyển thể cải lương: Nguyễn Thị Khánh An)
  • Đài Trang
  • Đêm của bóng tối (kịch bản: Lê Chí Trung)
  • Dung Lệ
  • Hoàng hậu của hai vua (kịch bản: Lê Duy Hạnh)
  • Hương trầm cho mẹ (kịch bản: Khưu Ngọc)
  • Một chồng (Tiểu thuyết: Ngọc Linh, chuyển thể cùng Hồ Công Thành)
  • Mùa thu trong mắt mẹ
  • Ngôi nhà không có đàn ông (kịch bản: Ngọc Linh, chyển thể cải lương: Nguyễn Thị Khánh An)
  • Tình xa nghĩa lạ
  • Bà từng tìm cách quyên sinh 3 lần nhưng bất thành.
  • Bà từng quy y Tam bảo Phật giáo với pháp danh Diệu Lộc tại chùa Sắc Tứ (Tiền Giang) do Sư bà Thông Huệ quy y. Bà học Thiền với hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ (Thiền phái Trúc Lâm yên tử)
  • Bà kết hôn lần đầu tiên với danh thủ bóng đá Phạm Huỳnh Tam Lang năm 1967. Cuộc hôn nhân tan vỡ năm 1974 vì lý do riêng tư. Hai người không có con chung. Dù ly dị nhưng sau này 2 người vẫn dành cho nhau những lời tốt đẹp.
  • Sau khi ly dị, cũng trong năm 1974, bà lập gia đình lần thứ 2 với ông Charles – Nguyễn Văn Đức, một Việt kiều quốc tịch Pháp. Hai người có với nhau 1 người con trai tên Bảo Giang Valery Bauduin, hiện đang làm việc ở Mỹ. Hiện tại bà có 3 cháu nội trai đang học tập sinh sống tại Mỹ.

Riêng bà vẫn giữ quốc tịch Viẹt Nam .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

  • Phỏng vấn Nghệ sĩ cải lương Bạch Tuyết: Cải lương là bài giảng pháp đẹp nhất, Kim Yến thực hiện

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

Để lại bình luận